Luật Các Tổ chức Tín dụng số 32/2024/QH15 (Luật TCTD mới) được Quốc hội thông qua vào ngày 18 tháng 1 năm 2024 và sẽ có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2024 (trừ một số điều khoản về chuyển nhượng tài sản bảo đảm, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2025). Luật này thay thế Luật TCTD năm 2010 (sửa đổi năm 2017) và nhằm mục tiêu tăng cường hoạt động ngân hàng cũng như nâng cao tính minh bạch trong lĩnh vực này.
Dưới đây là một số thay đổi quan trọng trong hoạt động ngân hàng theo Luật TCTD mới:
1. Giảm Hạn Mức Cho Vay
Điều 136 quy định việc giảm dần hạn mức tín dụng mà các tổ chức tín dụng có thể cấp cho một khách hàng, nhằm đa dạng hóa danh mục tín dụng và giảm thiểu rủi ro nợ quá hạn.
Cụ thể:
Với ngân hàng thương mại, ngân hàng hợp tác, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô:
Hạn mức tín dụng tối đa cho một khách hàng đơn lẻ giảm từ 15% xuống còn 10% vốn tự có.
Cho một khách hàng và người có liên quan giảm từ 25% xuống còn 15% vốn tự có.
Thời hạn thực hiện: đến năm 2029.
Với các tổ chức tín dụng phi ngân hàng (ví dụ: công ty tài chính tổng hợp hoặc chuyên biệt):
Cho vay tối đa một khách hàng giảm từ 25% xuống 15% vốn tự có.
Cho khách hàng và người liên quan giảm từ 50% xuống 25% vốn tự có.
Ngoại lệ:
Trường hợp ủy thác cho vay mà tổ chức nhận ủy thác không chịu rủi ro.
Trường hợp người vay là tổ chức tín dụng khác hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Trường hợp được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt hạn mức cao hơn.
2. Hạn Chế Hoạt Động Bancassurance
Điều 15.5 nghiêm cấm các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, cũng như lãnh đạo và nhân viên của họ kết hợp việc cung cấp sản phẩm ngân hàng với sản phẩm bảo hiểm không bắt buộc, dưới bất kỳ hình thức nào.
Đây là quy định mới nhằm chấm dứt tình trạng ép mua bảo hiểm khi vay vốn, qua đó củng cố niềm tin của khách hàng vào cả ngành ngân hàng lẫn bảo hiểm.
3. Công Nhận Dịch Vụ Đại Lý Tài Sản Bảo Đảm
Điều 114.2(dd) quy định rõ ngân hàng thương mại có thể cung cấp dịch vụ đại lý tài sản bảo đảm cho các bên cho vay là:
Tổ chức tài chính quốc tế,
Tổ chức tín dụng trong và ngoài nước,
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Đây là bước tiến quan trọng vì trước đây, ngân hàng Việt Nam muốn làm đại lý tài sản bảo đảm trong một khoản vay hợp vốn bắt buộc phải tham gia cho vay, từ đó chịu thêm rủi ro. Nay, ngân hàng có thể chỉ đóng vai trò đại lý bảo đảm độc lập.
Ngân hàng Nhà nước dự kiến sẽ hướng dẫn cụ thể hơn trong thời gian tới.
4. Quyền Xử Lý Dự Án BĐS Là Tài Sản Bảo Đảm
Điều 200 trao cho các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty quản lý nợ và tài sản quyền chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án bất động sản là tài sản bảo đảm để thu hồi nợ, mà không cần đáp ứng điều kiện thông thường của bên chuyển nhượng, miễn là tuân thủ Luật Kinh doanh Bất động sản và các luật liên quan.